Originally Posted by: MyTho 
QUÁN BÊN ĐƯỜNG..Nghe ca khúc Quán Bên Đường...............Thơ: Bình Nguyên Lộc
Nhạc : Phạm Duy
Ngày xưa ngày xửa ngày xưa
Chiều mơ chiều nắng đẹp khoe mầu tơ
Hai đứa mình còn trẻ thơ
Rủ nhau ngồi ngưỡng cửa chơi thẩn thợ
À a a nhớ nhớ em còn mái tóc bánh bèo
À a a nhớ má chưa hồng da mét vì em nghèo
Ðầu anh còn húi trọc, còn húi trọc
Khét nắng hôi trâu thèm đi học, thèm đi học
Thèm đi học...
Em cầm một củ khoai
Ghé răng cạp vỏ rơi
Xong rồi mình chia đôi
Khoai sùng này lượm mót
Sao ngọt lại ngọt ghê
Giờ đây kỷ niệm ngày xưa
Giờ đây cảnh cũ chìm xa mù khơi
Gặp nhau một chiều lạnh mưa
Nhìn nhau quần áo bảnh bao mừng saọ
Nhìn em còn xinh còn tươi
Ðời em tưởng đâu là vui
Nhà em phải chăng là đâỷ
Dè đâu chẳng may là quán
Em bẹo hình hài đem bán...
Rồi em hỏi anh: làm chỉ
Cầm bút để viết ngày đêm, viết gì?
Ðời thối phải nói là thơm
Ngòi bút là chiếc cần câu miếng cơm
Em hỏi nghệ thuật là chỉ
Là đui, là điếc, là câm mà đị
Nhìn nhau lặng lẽ nhìn nhau
Nào có ai đánh mà sao lòng đaụ
Bánh ngọt cùng mời ăn
Nhớ chăng củ khoai ngon
Bánh tươm vàng như nắng
Bánh này mình chưa cắn
Sao mà miệng cay đắng?
Rồi xin một nụ cười thôi
Cười ư ? Anh đã vùi quên nụ cười
Thì xin vài giọt lệ rơi
Lệ em cạn đã từ lâu, người ơi
Trước khi từ giã hỏi nhau buồn hay là vui
Thì cứ hỏi ngay cuộc đờị..
Bài "Quán bên đường" đã làm tôi xúc động và đã viết nên vài suy nghĩ, kính mời bạn đọc chia sẻ cùng tôi
NGƯỜI RONG CA DỪNG CHÂN QUÁN BÊN ĐƯỜNG
Kể từ những năm tháng tuổi thơ, những ngày xa xưa còn bé dại ấy, nhạc Phạm Duy đã tác động mạnh đến tâm hồn tôi, ảnh hưởng đến tình cảm, đạo đức, cách nhìn của tôi đối với tha nhân với xã hội,
Ngày xưa ấy, xa lắm rồi, tôi sống với những chuỗi ngày hồn nhiên, hạnh phúc cùng với cha tôi, các anh chị tôi.
Không gian vây quanh tôi là căn phòng lồi, hẹp, những bức tường vôi màu vàng ố, những cái ghế dựa gỗ kiền kiền màu nâu sẫm, cái divan gỗ màu cánh dán tối sẫm, cái bàn bureau, cái kệ sách không biết bao nhiêu là sách, tạp chí.
Ở nhà dưới, là xưởng làm gồm nhiều thợ và học trò. Cha tôi thường điều hành đám thợ, ít khi lên nhà trên. Những tiếng động chát chúa của búa đập, tiếng gò tôn ào ào làm cho tôi sợ hãi sinh hoạt ấy.
Tôi sống trong thế giới của tôi: sách báo, những cuốn truyện, những bản nhạc do nhà xuất bản Tinh hoa ấn hành, …
Tôi nhớ rất rõ, dạo ấy tôi thường cầm một tập nhạc nghêu ngao hát mỗi khi rỗi, hát say mê thích thú, đó là tập nhạc “Con đường cái quan” của Phạm Duy:
“Hởi anh đi trên đường cái quan, dừng chân đứng lại, dừng chân đứng lại cho em đây than đôi lời…”
Ngày ấy, tôi ít quan tâm cá nhân người nhạc sĩ, thân thế, sự nghiệp, hoạt động chính trị, …tôi còn quá bé. Tôi chỉ nghe hát và thích thì hát và hình như tôi nhớ không nhầm thì nhạc Phạm Duy thấm đẫm vào hồn tôi sớm nhất, từ thuở ấy.
Tôi nhớ nhà tôi có một chiếc máy quay đĩa, mỗi lần muốn nghe đĩa là phải quay nhiều vòng như là lên giây cót cho chiếc đồng hồ vậy, và phải có kim để bỏ vào đầu để chạy đĩa nhựa. Máy này cha tôi mua từ thời Pháp thuộc. Tôi nhớ có một bài hát tôi nghe hoài không biết chán, đó là bài “Gánh lúa” mà nhịp điệu câu hát làm tôi hình dung ra được người đang gánh lúa trên đôi dóng của họ, bước đi nhịp nhàng, tiếng kêu kiu kịt:
“Gánh gánh gánh, gánh thóc về, gánh thóc về, gánh về, gánh về, gánh về, …”
Dạo đó, tôi đâu biết là bài hát ấy (gánh lúa) là của Phạm Duy.
Sau này lớn lên một tí, tôi say mê những bài hát của ông. Mỗi bài hát, mỗi giai điệu làm tôi choáng ngợp. Các dân ca Nam bộ, các bài hát quan họ đều được Phạm Duy soạn lại theo ca khúc tân nhạc làm ta gần gũi, hòa nhập với đời sống người nông dân nhiều hơn. Như bài “Em bé chăn trâu”:
“Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ. Ngồi mình trâu phất ngọn cờ lau và miệng hát ngêu nga. Vui thú không quên học đâu. Nằm đầu non gió mát, cất tiếng ca tiếng lúa đang reo, em đánh vần thật mau…”
Hoặc bài “Ru con”:
“Đêm khuya trăng tàn, mẹ ru con ngủ, à à ơi! À à ơi! ngoan ngoan con nhoẻn miệng cười, ru con mẹ tưởng như đời nở hoa. À à ơi, à à ơi, sương nắng miền xa, con ơi cha con sương nắng miền xa, mong sao con trẻ quê nhà được vui. À à ơi, à à ơi ! ...mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời giặc cướp có thương dân mình, à à ơi, à à ơi, ... »
Một bài hát rất lâu lắm rồi tôi đã nghe ngày xưa một ca sĩ nào đó hát, nhưng mới đây nghe Quỳnh Giao hát lại tôi ngẩn ngơ, lời bài hát mở đầu bằng tiếng kêu êm ái “chiều ơi!”, tôi nghe như gọi tên một người nào thân quen lắm, đã xa tôi ngàn dặm và lâu lắm rồi, rất thân thiết, rất ngọt ngào:
“Chiều ơi ! Lúc chiều về rợp bóng nương khoai. Trâu bò về rục mõ xa xôi, ơi chiều. Chiều ơi ! Áo chàm về quảy lúa trên vai. In hình vào sườn núi chơi vơi, ới chiều. Chiều ơi ! Lúc chiều về là lúc yên vui, qua đường mòn ngửi lúa thơm ngơi, ới chiều Chiều ới ! Chiều ơi ! Chiều ơi !”
Tiếng kêu “chiều ơi!” tôi nghe như lời gọi tha thiết dịu dàng. Thiên nhiên, buổi chiều hòa nhập với con người. Phải chăng đó là thân, là xác, là người nông dân, là hạt lúa của Việt Nam thân yêu? Giọng hát của Quỳnh Giao nhẹ nhàng, trong rõ và đôn hậu như một hơi thở. Tôi chìm đắm, ngẩn ngơ như một kẻ bị hớp hồn bởi ánh mắt của người yêu.
Phạm Duy viết nhạc như một ngôn ngữ nói bình thường, phát biểu thái độ, cảm nghĩ của chủ thể trước cuộc đời. Người nghệ sĩ phải chấp nhận dấn thân (engagement) để làm đẹp cuộc đời, nhưng dấn thân với thái độ vô vụ lợi, không dính líu (détachement), không màng công danh, không tham vọng chính trị. Đó là một người rong ca. Đi ngao du sơn thủy, mượn lời ca điệu nhạc để gởi gắm tâm sự, thái độ của mình trước cuộc đời. Ngôn ngữ âm nhạc ở đây là ngôn ngữ gần nhất với đại chúng, với con người. Đó cũng là một loại đồng dao với mong ước quyền lực lắng nghe. Phải chăng đó là thái độ minh triết, yêu nước, yêu quê hương:
“Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi. Mẹ hiền ru những câu xa vời. À à ơi ! Tiếng ru muôn đời. Tiếng nước tôi ! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui. Khóc cười theo mệnh nước nỗi trôi, nước ơi. Tiếng nước tôi ! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi. Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi …”
Và người nghệ sĩ ấy đã dấn thân, nhập cuộc. Trong tập “Con đường cái quan” ta thấy bìa 1 trình bày chân dung người nhạc sĩ (hay người rong ca), cây đàn guitare trên vai, đôi giày hả mõ đang đi trên đường. Người nghệ sĩ ấy đã nhập cuộc, đã tham gia kháng chiến trong đội văn công. Thế nhưng nhạc sĩ họ Phạm một lúc nào đó đã ngộ ra, đã phản tỉnh, đã nhận diện được cuộc đời. Và ông lại lên đường đi tiếp, từ Bắc vô Nam. Dấu chân đã mõi, đôi giày đã sờn rách, người nghệ sĩ tạm dừng chân “Quán bên đường”: Phút giây gặp gỡ. Quá khứ tái hiện:
“Ngày xưa, ngày xửa, ngày xưa. Chiều mơ, chiều nắng đẹp tươi, màu tươi. Hai đứa, mình còn trẻ thơ, rủ nhau ngồi ngưỡng cửa chơi, thần tiên. À a ha nhớ, nhớ em còn mái tóc bánh bèo. À ha a nhớ, nhớ má chưa hồng ra nét vì em nghèo. Đầu anh, đầu anh còn húi trọc, còn húi trọc, khét nắng hôi trâu thèm đi học, thèm đi học. Em cầm một củ khoai, ghé răng cạp vỏ rơi, xong rồi mình chia đôi, khoai sùng này lượm mót, sao ngọt lại ngọt ghê.”
Đó là thiên đường ngọc ngà. Phạm Duy đẩy nét nhạc dâng lên cao độ thể hiện sự cảm xúc khi hình ảnh quá khứ ngập tràn bằng một cung điệu cao vút: “À ha a nhớ, nhớ…”.
Tôi nghĩ không ai có thể lồng nét nhạc hay như ông trong khoảnh khắc này: “À ha a nhớ…” Đây là một loại ngôn ngữ âm nhạc diển tả sự hồi sinh của tình yêu, của kỉ niệm như một cảm xúc, quay quắt đến điên cuồng.
Và hiện tại?
“…Giờ đây kỉ niệm ngày xưa, giờ đây cảnh cũ chìm xa, mù khơi. Gặp nhau một chiều lạnh mưa, nhìn nhau, quần áo bảnh bao, mừng sao”
Không còn biên giới giữa ngôn ngữ nhạc và ngôn ngữ nói nữa mà là sự cuống quýt mừng mừng tủi tủi giữa hai tâm hồn cô đơn gặp lại nhau trong một chiều mưa lạnh giá, với cảnh sống nghiệt ngã đau lòng:
“Nhìn em còn xinh còn tươi. Đời em tưởng đâu là vui. Nhà em phải chăng là đây? Dè đâu chẳng may là quán, em bèo hình hài đem bán ... Rồi em hỏi anh làm chi? Cầm bút để viết ngày đêm. Viết gì? Đời thôi phải nói là thơm, ngòi bút là chiếc cần câu miếng cơm”.
Phút buồn vui hạnh ngộ, từ lâu người yêu chỉ là chiếc bóng trên bước đường giong ruỗi. Phút giây này, mặt đối mặt, những cuống quýt thăm hỏi về nhau. Sự thật đau lòng.
“Em hỏi nghệ thuật là chi? – Là đui, là điếc, là câm người ơi!”
Nghệ thuật là đui, là điếc, là câm.
Tiếng hát của ca sĩ Thái Thanh một hôm nào tôi nghe như lời kêu than trong tuyệt vọng, như lời tự thú của người nghệ sĩ một thời miệt mài hoạt động cho lý tưởng.
Nhưng lý tưởng là gì ? Phải chăng là những con đom đóm mà một thời tuổi trẻ mộng mơ đuổi bắt trong đêm tối cho kỳ được. Nhưng khi đã bắt được rồi thì chỉ là những con sâu bọ ghê sợ!
Người nghệ sĩ muốn gởi cho chúng ta một thông điệp, yếu tính của nghệ thuật là sự tự do. Không có tự do thì nghệ thuật chỉ là sự què quặc.
Năm 1984, Ông Nguyễn Văn Linh, TBT của đảng CSVN tuyên bố: “Các văn nghệ sĩ đã được cởi trói”.
Tạp chí Sông Hương mở các cuộc hội thảo xoay quanh vấn đề con người nhìn từ góc độ một chiều hay đa chiều?
Bắt nguồn từ những bức xúc, họa sĩ Bửu Chỉ phân tích nghệ thuật trong hội họa với yếu tính tự do, anh nói:
" ...Khởi đi từ nhận thức rằng: nghệ thuật chỉ có trong tự do, nên làm nghệ thuật đó là công việc của cá thể. Vì vậy đòi hỏi sự trung thực và dũng cảm ở người sáng tạo ...” (Bửu Chỉ: Bằng chính tôi, tôi đến với cuộc đời – Tạp chí Sông Hương, Xuân Mậu thìn năm 1988).
Như vậy với quyền lực, nghệ thuật phải bị điều khiển. Thân phận nghệ thuật chỉ là một sự tàn tật : Đui, điếc, câm.
Và người làm nghệ thuật chấp nhận số phận nghiệt ngã như một định mệnh :
« Nhìn nhau lặng lẽ nhìn nhau. Nào có ai đánh mà sao lòng đau".
Không có bi kịch nào đớn đau bằng sự khô cằn tình cảm, đó là sự phá sản của con người. Sự xuống dốc của niềm tin. Chủ thể, tha thể chỉ còn là vật thể trơ lỳ:
« Cười ư ? Anh đã vùi quên nụ cười. Thì xin vài giọt lệ rơi. Lệ em cạn đã từ lâu, người ơi ».
Làm sao cười được với cuộc đời, khi mà trên bước đường giong ruỗi, anh đã kinh qua biết bao nhiêu sự thật, những sự thật đau lòng. Gót chân anh đã chai sạn, đầu gối anh đã mõi. Nhưng mà cười là gì ? Phải chăng cười là tín hiệu gởi đi một hạnh phúc, là đám cưới với cuộc đời ?
Trong đôi mắt biết nói, trong nụ cười đã hé, em muốn hỏi anh buồn hay là vui ?
Phải chăng trong câu hỏi đã bao hàm câu trả lời. Bản chất cuộc đời vốn bi đát và nói như nhân vật trong « người viễn khách thứ mười » của tác giả Nghiêm Xuân Hồng, không có cuộc sống nào đáng sống, nhưng lỡ sống đành phải chấp nhận cuộc sống.
Bi kịch của con người là ở chỗ đó !
Bài hát « Quán bên đường » của nhạc sĩ Phạm Duy, được phổ nhạc vào khoảng thập niên 1960. lời được tác giả ghi là khuyết danh, nhưng theo dư luận thì bài hát này được Phạm Duy viết theo nội dung một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Bình Nguyên Lộc. Đây là một bài hát nói về một câu chuyện tình đẹp mang vóc dáng của thời thế, của hoàn cảnh đất nước.