Rank: Advanced Member
Groups: Moderator, Registered Joined: 3/15/2011(UTC) Posts: 5,595 Location: CỏThơm
Thanks: 4254 times Was thanked: 10700 time(s) in 2632 post(s)
|
,(tiếp theo) Vì thế, sau hai ca khúc bị cấm phổ biến là “Chiều mưa biên giới” và “Mấy dặm sơn khê,” nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông vẫn tiếp tục sáng tác những ca khúc mang tính “phản chiến” như các bài “Lá thư người lính chiến.” Bài này bị bộ Thông Tin cấm lưu hành vì các câu: “Mẹ ơi! Cầu xin cho xóm làng quê hương xóa mờ chiến trường - Đồng bào ta cùng thương nhau xóa hận thù đi – xóa đi đường ranh giới…” Mặc dù, hai câu chót, trong phần ca từ của bài này, ghi rõ rằng: “Mẹ ơi và con trai của mẹ ngày mai sẽ về… sẽ về - Mẹ ơi! Mẹ hiền ơi! Chớ buồn vì con, nước non chưa tròn…”
Cách khác, dù mong mỏi hòa bình đến cho dân tộc, nhưng không vì thế mà tác giả từ chối nhiệm vụ của một người lính.
Ca khúc nhan đề “Anh trước tôi sau,” Nguyễn Văn Đông viết để tưởng niệm người bạn thuở cùng học với ông ở trường Thiếu Sinh Quân, Vũng Tầu: Cố Thiếu tướng Trương Quang Ân, Tư lệnh sư đoàn bị bắn rớt máy bay, tử nạn khi ông mới 37 tuổi, cũng bị xếp vào loại nhạc “phản chiến.” Nội dung ca khúc này chỉ muốn nói, là những quân nhân đã tự nguyện hiến mình cho tổ quốc thì, cái chết là điều đương nhiên sẽ phải đến với người lính. Khác nhau chăng chỉ là thời gian. Sớm, muộn!
Riêng ca khúc “Anh” tức “Anh nhớ gì không anh” của họ Nguyễn thì bị cấm vì các câu như: “Nước mắt dân Hời, thành quách một thời tan tành hệ bởi đâu? Sao ta nỡ xa ta, xẻ chia sơn hà cho Bắc Nam mình xa cách nhau!”
Như đã nói, cái tinh thần kẻ sĩ, cái ý thức đất nước, dân tộc, khiến Nguyễn Văn Đông chấp nhận thua thiệt trong binh nghiệp, nhưng bảo vệ được khí tiết của một kẻ sĩ thao thức, trằn trọc trước tang thương đất nước. Nhưng đó là sự lên tiếng của một người lính tự nguyện. Một người lính vẫn làm tròn bổn phận của một công dân thời đất nước binh đao, ly loạn… Sự kiện này vẫn khác, hoàn toàn khác với những nhạc sĩ cũng giương cao ngọn cờ phản chiến; nhưng lại là những người từ chối trách nhiệm của một công dân trước thời cuộc.
Hơn một lần, nhạc sĩ Hoàng Thi Thao từng nói với tôi: “Về phương diện nhạc chống chiến tranh thì, Nguyễn Văn Đông là người thứ nhất, người đầu tiên xông xáo vào con đường nhậy cảm và, gai góc này.”
Tuy nhiên, tôi vẫn thấy cần phải ghi nhận một cách công bình rằng, tiếng nói của Nguyễn Văn Đông, cách gì, cũng vẫn là tiếng nói phản ảnh tâm tư của một nghệ sĩ đau đáu trước những đau thương, tang chế của đất nước - - Song song với con người chọn con đường binh nghiệp khi còn rất trẻ. Đó là sự khác biệt to lớn, giữa một người đứng trong lửa đạn và, những người đứng ngoài, với những kêu đòi vô trách nhiệm.
Trong đời nhạc Nguyễn Văn Đông, tình yêu tổ quốc luôn nồng nàn, như thể đó là tình yêu thứ nhất của đời ông:
“Và xin em hiểu rằng, người đi giúp nước nào màng danh chi - Cầu cho đất nước vượt ngàn gian nguy – Lòng anh vẫn nhớ tình người hôm nay - - Đời dâng cho núi sông – Lòng này thách với tang bồng - Đừng làm má thắm phai hồng, buồn lắm em ơi!...” (Trích “Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”.)
Hoặc:
“Người về đây giữa non sông này - Hội trùng dương hát câu sum vầy - Về cho thấy con thuyền nước Nam – Đi vào mùa xuân mới sang – Xa rồi ngày ấy ly tan - - Tôi đi giữa trời bồi hồi - Cờ bay phất phới tôi quên chuyện ngày xưa – Mong sao nước Việt đời đời – Anh dũng oai hùng chen chân thế giới…” (Trích “Hải ngoại thương ca”.)
Tôi cho đó là tấm lòng, là trái tim của một nghệ sĩ chọn ở với tổ quốc của mình, bằng một tình yêu một chiều; mà, không một tình yêu nào có thể so sánh hoặc thay thế được.
Có một vài tài liệu ghi nhận rằng, nhạc sĩ Nguyễn văn Đông sinh năm 1934; nhưng theo sự xác nhận của họ Nguyễn thì, ông sinh năm 1932 tại Quận Nhất, thành phố Saigòn. Nguyên quán của ông là tỉnh Tây Ninh, Huyện Bến Cầu. Thuở bé Nguyễn Văn Đông học trường Huỳnh Khương Ninh, Phường Đakao, Tân Định, Saigòn. Năm 1945- 1946 loạn lạc, trường Huỳnh Khương Ninh đóng cửa.
Gia đình gửi ông vào trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam, ở thành phố Vũng Tàu, khi ấy ông mới 14 tuổi. Và, con đường binh nghiệp của ông, chính thức khởi đi từ đấy.
Năm 1950 Nguyễn Văn Đông tốt nghiệp trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, cũng là nơi xuất thân của trên dưới 30 tướng lãnh thuộc quân lực VNCH cũ. Trong đó, có Thống tướng Lê văn Tỵ,Tổng tham mưu trưởng đầu tiên của QL/VNCH, người được coi là anh cả của Thiếu sinh quân Việt Nam.
Năm 1951 Nguyễn Văn Đông được cử theo học khóa 4 trường Võ bị Sĩ quan Vũng Tàu. Họ Nguyễn tốt nghiệp thủ khoa với cấp bực Thiếu uý năm 1952. Tưởng cũng nên nói thêm rằng, Đại tướng Cao Văn Viên, người giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH sau cùng của miền Nam Việt Nam, cũng tốt nghiệp thiếu úy khóa 1 của trường này.
Năm 1953, Thiếu úy Nguyễn Văn Đông tốt nghiệp khóa “Đại đội trưởng” tại Trường Võ Bị Đà Lạt. Cũng năm này, ông có chân trong Ban giám khảo chấm thi Khóa Võ bị Đalạt 1953 do Quốc trưởng Bảo Đại chủ tọa lễ bế giảng khóa.
Năm 1954, họ Nguyễn lại được gửi ra Hà Nội theo học khóa “Tiểu Đoàn trưởng” tại Trường Chiến thuật Hànội. Ra trường, ông được chỉ định vào chức vụ Tiểu Đoàn trưởng Trọng pháo 553. Đó là năm 1955, khi họ Nguyễn mới 24 tuổi; một tiểu đoàn trưởng trẻ nhất của quân đội.
Trải qua nhiều chức vụ, nhiều đơn vị và đồn trú ở nhiều nơi chốn khác nhau, trước khi được đưa về Saigòn, giữ những chức vụ tương đối quan trọng; cấp bực sau cùng của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông là Đại tá, Trưởng khối lãnh thổ Bộ Tổng tham mưu. Ông cũng từng được trao tặng huân chương cao quý nhất; đó là huy chương Bảo quốc huân chương.
Khi biến cố tháng 4-1975 xẩy ra, như tất cả những sĩ quan QLVNCH khác, Nguyễn Văn Đông bị tù cải tạo. Sau 9 năm 6 tháng, ông được trả về ngày 01/01/1985 với lý do:
“Đương sự bị bệnh sắp chết, nên cho phép gia đình đem về nhà chôn cất!”
Tuy thuộc diện HO, đủ điều kiện để xin định cư tại Hoa kỳ, nhưng gia đình thấy họ Nguyễn đau bệnh quá nặng, không biết chết lúc nào, nên đã giữ ông ở lại, thể theo ước nguyện của ông là, khi chết xin được chôn tại quê nhà.
Về sự kiện này, tác giả “Về mái nhà xưa” cho biết, ông cũng không hiểu do đâu, mà Trời Phật đã nhìn lại ông và, cho ông sống, dù là một đời sống “rất lê lết” (chữ của ông,) cho đến ngày hôm nay.
Về cái mà tôi muốn gọi là “nhạc nghiệp” của nhạc sĩ tài hoa Nguyễn Văn Đông, theo một số tài liệu đã được phổ biến ở hải ngoại cũng như tại Việt Nam thì: Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông chính thức tham dự vào sinh hoạt âm nhạc ở miền Nam Việt Nam vào khoảng giữa thập niên 1950. Ông nổi danh ngay với những ca khúc đầu tay như “Chiều mưa biên giới,” “Phiên gác đêm xuân,” “Súng đàn”… là ba ca khúc ra đời trong năm 1956 và được phổ biến rất rộng rãi. Nhưng ca khúc “Thiếu sinh quân hành khúc” bài hát được công nhận là ca khúc chính thức của trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu, Nguyễn sáng tác năm 1948, khi mới 16 tuổi, mới thực sự là sáng tác đầu tay của người nhạc sĩ đa tài này.
Ngoài bút hiệu và cũng là tên thật, Nguyễn Văn Đông, họ Nguyễn còn dùng nhiều bút hiệu khác như Phượng Linh, Phương Hà, Đông Phương Tử, Vì Dân, Hoàng Long Nguyên.
Cũng ngay từ giữa thập niên 1950, trong vai trò Truởng Đoàn văn nghệ Vì Dân ở Saigòn, Nguyễn Văn Đông đã nhận được sự hợp tác của rất nhiều ca, nhạc sĩ tên tuổi thời đó, như Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Thu Hồ, Quách Đàm, Minh Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ thuộc lãnh vực kịch nghệ, điện ảnh, cải lương danh tiếng như Kim Cương, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch… Ông cũng cho thấy tài tổ chức và điều khiển các chương trình Đại nhạc hội lớn, rất thành công tại Sài Gòn, cũng như các tỉnh.
Về sinh hoạt liên quan tới đài phát thanh thì, ngay từ năm 1958, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đã là trưởng ban nhạc “Tiếng Thời Gian” của đài Saigòn. Ban nhạc của ông quy tụ những tên tuổi như Lệ Thanh, Anh Ngọc, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh Ngọc, Mạnh Phát, Thu Hồ, Quách Đàm...
Ở cấp độ quốc gia thì, năm 1959, họ Nguyễn được chọn làm trưởng ban tổ chức “Đại hội thi đua Văn nghệ toàn quốc,” tập hợp hơn 40 đoàn văn nghệ, đại diện cho toàn miền Nam; tranh giải liên tiếp 15 ngày đêm tại Sài Gòn. Với tất cả những thành tích kể trên, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đã được trao tặng “Giải âm nhạc quốc gia.” Bà cố vấn Ngô Đình Nhu là người trao tặng giải thưởng này cho họ Nguyễn.
Nói tới nhạc nghiệp của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông mà, không nói tới thời gian họ Nguyễn làm Giám đốc hãng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca, nổi tiếng một thời ở miền Nam, tôi cho là một thiếu sót quan trọng.
Ở vai trò này, với sự hợp tác tích cực của những nhạc sĩ như Nghiêm Phú Phi, Văn Phụng, Y Vân, Lê Văn Thiện… Hai hãng đĩa của ông đã đem sự giầu có, phong phú cho sinh hoạt tân nhạc cũng như cổ nhạc miền Nam, 20 năm; với những album riêng cho từng ca sĩ.
Quay lui lại thời điểm đầu thập niên 1960, sự kiện trung tâm băng nhạc Sơn Ca cho ra đời những băng nhạc chỉ với một tiếng hát như Sơn Ca # 6, tiếng hát Giao Linh; Sơn Ca # 7, tiếng hát Khánh Ly; Sơn Ca # 8, tiếng hát Lệ Thu; Sơn Ca # 9, tiếng hát Phương Dung, Sơn Ca # 10, tiếng hát Thái Thanh và ban hợp ca Thăng Long… cùng một số băng nhạc riêng, dành cho nhạc Trịnh Công Sơn, là một sáng kiến cực kỳ mới lạ. Nó mở đầu cho những album sau này, với một tiếng hát, của nhiều trung tâm băng nhạc khác.
Lại nữa, tôi cho rằng chúng ta cũng sẽ không phải với nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, một người, không chỉ tận tụy cống hiến trọn cuộc đời mình cho nền tân nhạc miền Nam, 20 năm; mà ông còn là người có công đầu trong nỗ lực khai sinh, hình thành rồi phát triển một hình thái nghệ thuật mà, sau này chúng ta quen gọi là hình thái âm nhạc “Tân Cổ Giao Duyên.”
Trước khi đi sâu vào lịch sử hình thành của hình thái nghệ thuật từng được chào đón tại miền Nam Việt Nam, tính đến tháng 4 năm 1975, chúng tôi muốn nhắc tới bài “Tân cổ giao duyên” đầu tiên của hình thái phối hợp nghệ thuật đặc biệt này. Đó là bài “Khi đã yêu” sáng tác của Phượng Linh và soạn giả Đông Phương Tử. Do 2 nghệ sĩ nổi tiếng của sân khấu Cải lương là Thanh Nga, Minh Phụng thu âm lần đầu, tại Saigòn. Bài “Tân cổ giao duyên” này, sau đó, đã được nhà xuất bản Hồng Hoa ấn hành thành nhạc bản.
Tuy là hai bút hiệu khác nhau, nhưng sự thực, chỉ là một.
Những người yêu nhạc Nguyễn Văn Đông hẳn không quên, với bút hiệu Phượng Liên, ông là tác giả của những ca khúc nổi tiếng như “Bóng nhỏ giáo đường,” “Niềm đau dĩ vãng,” “Đom đóm,” “Khi đã yêu,” “Thương muộn,” “Lời giã biệt” v.v… Và, bút hiệu Đông Phương Tử họ Nguyễn dùng cho tất cả những sáng tác liên quan đến phần cổ nhạc.
Nhưng phải đợi tới sáng tác “Tân cổ giao duyên” thứ hai, cũng của Nguyễn Văn Đông, đó là bài “Mùa sao sáng,” do Mộng Tuyền trình bày, thì phong trào “Tân cổ giao duyên” mới thực sự rộ lên, không chỉ tại Saigòn mà, khắp mọi miền đất nước.
Vì ca khúc “Mùa sao sáng” ký tên Nguyễn Văn Đông, nên bài Tân cổ giao duyên “Mùa sao sáng” được phổ biến với hai tên: Nhạc Nguyễn Văn Đông, Soạn giả Đông Phương Tử. Bài Tân cổ giao duyên này, theo thiển ý của chúng tôi, rất thích hợp cho những mùa Lễ Giáng Sinh của người Việt Nam, nơi quê người.
Sau khi in lại phóng ảnh bìa của hai bài “Tân cổ giao duyên” nhan đề “Khi đã yêu” và “Mùa sao sáng” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, do nhà xuất bản Hồng Hoa ấn hành, chúng tôi nhận được một phóng ảnh bản tin “Cổ Nhạc Việt Nam số 3,” của nhà Đồng Nai xuất bản (in kèm bài này;) do một thân hữu gửi tặng.
Nguyên văn trang nhất của bản tin đó như sau: “Đôi Lời Giao Cảm,
“Những năm gần đây, phong trào nghe nhạc ‘Tân-Cổ Giao-Duyên’ rất thịnh hành, lan rộng từ thành thị đến thôn quê. Đồng bào các giới nhiệt liệt tán thưởng, ưa thích. Môn ‘Nghệ Thuật Mới’ đến với chúng ta như một cơn bão, thách thức với thời gian và nhân-sinh quan nghệ-thuật.
“Tân-Cổ Giao-Duyên là gì?
“Là bài ca 6 câu vọng cổ được cắt bớt đi 2 hoặc 3 câu để xen vào đó một đoạn “Tân nhạc mà chúng ta gọi nôm na là nhạc mới.
“Sự kết hợp giữa Tân và Cổ nhạc thật là kỳ thú, đem lại cho người nghe những âm hưởng luôn luôn biến thoát, làm tăng thêm sự cảm khoái của người thưởng thức và cả người nghệ sĩ diễn tả.
“Trước hướng đi lên của nền nghệ thuật mới, Nhà xuất bản ‘Đồng Nai’ chúng tôi tiền phong cho ấn hành một loạt bài ca ‘Tân Cổ Giao Duyên’ để giúp cho các bạn mộ điệu có thể tự học lấy dễ dàng. “Nhờ sự hợp tác của một số nhạc sĩ hữu danh Tân-Cổ, các bản nhạc này được trình bày bằng các phương pháp ký âm rất dản dị. Nhà xuất bản chúng tôi cũng đặc biệt nhờ nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông nghiên cứu ghi ký âm pháp sự hoà hợp giữa Tân và Cổ nhạc bằng các phương pháp dễ hiểu, hợp mọi trình độ nhạc lý.
“Mục đích nhằm vào:
“1- Giúp ca sĩ cổ nhạc và các Ban Tân và Cổ nhạc có thể nhìn vào bản này, hoà tấu ăn khớp ngay như bên giới Tân nhạc.
“2- Người ca sĩ cổ nhạc có dịp làm quen với các ký âm pháp, và trong thời gian ngắn sẽ ca hát rành rẽ các bài bản Tân nhạc như các ca sĩ Tân nhạc.
“3- Với lối trình bày tân-tiến hình thức của bản nhạc, người ca sĩ cổ nhạc khi cầm bản nhạc này trình bày trước Nhạc Hội, Quan Khách, sẽ làm tăng thêm vẻ duyên dáng lịch sự, trí thức như các ca sĩ tân nhạc mà ta vẫn thường thấy trên các sân khấu Đại Nhạc Hội và Đài Phát Thanh.
“Ngay bây giờ, các bạn mộ điệu muốn học hỏi, trao dồi nghề nghiệp, hãy sưu tầm ngay cho đủ bộ các ấn phẩm của chúng tôi được đánh dấu từ số 1.
“Nhà xuất bản ‘Đông Nai’.”
Với tài liệu vừa trình bày, chúng ta thấy, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông không chỉ là một trong những người có công đầu về sự hình thành và, phát triển phong trào “Tân cổ giao duyên” mà, ông còn là người nghiên cứu và phổ biến nhu cầu ký âm để các bản nhạc “tân cổ giao duyên” có thể in ra cho các nghệ sĩ cổ nhạc cầm lên sân khấu hát một cách dễ dàng như một bản tân nhạc vậy.
Đề cập tới nguyên nhân sâu xa đưa đến sự hình thành hình thái nghệ thuật “Tân cổ giao duyên,” một số nhân vật tham gia từ đầu cho biết: Vào năm 1962, các hãng băng đĩa nhạc Sàigòn chuyên sản xuất các chương trình ca cổ nhạc thuần tuý, bị thất thu nặng nề, vì số người mua đĩa sút giảm hẳn. Trước tình hình thương vụ bị suy giảm một cách đáng ngại, các hãng băng đĩa cổ nhạc bàn nhau, tìm một hướng đi mới, hầu cứu vãn tình thế. Thời gian đó, trong số các hãng chuyên sản xuất chương trình cổ nhạc có kỹ sư Ngô văn Đức; du học ở Pháp về. Kỹ sư Đức nối nghiệp cha là ông Năm Mạnh, làm chủ hãng đĩa Asia. Hãng này chuyên in, sản xuất đĩa 33 và 45 tours, cung cấp cho các Trung tâm băng đĩa như Hồng Hoa, Sóng nhạc… Ông Đức là người có công đứng ra mời gọi các soạn giả và, các chuyên gia âm nhạc hiến kế cải cách cấu trúc 6 câu của cổ nhạc. Và, kỹ sư Ngô văn Đức đã nhờ nhạc sĩ Nguyễn văn Đông nghiên cứu lắp ráp phần tân nhạc, còn soạn giả Viễn Châu, tức Bảy Bá (nổi tiếng với bài ca cổ nhạc “Tình anh bán chiếu” do Út Trà Ôn ca,) nhận lãnh nghiên cứu sắp xếp phần cổ nhạc, sao cho ăn khớp với phần tân nhạc…Kết quả nhạc sĩ Nguyễn văn Đông đã cho xuất bản bài ca “tân cổ” mẫu; tựa đề “Hướng dẫn ca và kỹ thuật sáng tác bài tân cổ giao duyên”. (Sự kiện này, được nhà xuất bản Đồng Nai ghi công, như chúng tôi đã sao lục ở trên.)
Tóm lại, sự khai sinh của hình thái nghệ thuật “Tân Cổ Giao Duyên” là một công trình tập thể, với sự đóng góp tài năng, trí tuệ của nhiều người. Trong số đó, công lao của kỹ sư Ngô văn Đức không nhỏ. Dù cho ông không phải là nhạc sĩ hay, nhà chuyên môn nghiên cứu âm nhạc. Tuy nhiên, một thân hữu khác của chúng tôi lại cho hay, vấn đề khởi nguồn “tân cổ giao duyên,” tới nay vẫn bị / được một số người trong nghề, cho rằng họ mới là những người có công…
“Nhưng tiếc thay, cho đến nay, chưa một ai, trong số những người đó, trưng dẫn được một bằng cớ cụ thể về “thành tích” của họ!” Nhân vật này nói.
Trở lại với nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, trong phần tiểu sử do một số trang mạng phổ biến thì, họ Nguyễn không chỉ có những đóng góp đáng kể cho phong trào “Tân cổ giao duyên” mà, ông còn là đạo diễn, viết nhạc nền, sáng tác ca khúc lồng trong trên dưới 50 vở tuồng cải lương nổi tiếng ở miền Nam. Điển hình như các vở tuồng “Nửa đời hương phấn” của soạn giả Hà Triều-Hoa Phượng; “Sân khấu về khuya” của soạn giả Năm Châu; “Mắt em là bể oan cừu” của soạn giả Vân An v.v…
Giải thích cho sự “lấn sân” từ “tân’ qua “cổ” nhạc một cách “ngọt ngào” của mình (*), nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông cho biết, miền nam Việt Nam, đặc biệt là miền Tây Nam Bộ, vùng đồng bằng sông Cửu Long, đa số người dân thích ca cổ nhạc hơn tân nhạc. Thị phần tiêu thụ băng đĩa cổ nhạc và tuồng cải lương chung cả nước, cũng lấn lướt bên tân nhạc. Ông nói:
“Thí dụ một chương trình tân nhạc phát hành lần đầu tiên tiêu thụ được 10 ngàn đĩa, thì chương trình cổ nhạc tiêu thụ được 3 lần nhiều hơn. Mặc dù chi phí đầu tư có nhỉnh hơn đôi chút. Nhưng nhà đầu tư rất an tâm vì không sợ bị lỗ vốn…”
Theo một tài liệu chúng tôi hiện có thì, vào năm 1960, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông cùng một người bạn vong niên là nhà doanh nghiệp Huỳnh Văn Tứ, đồng sáng lập hãng băng đĩa Continental. Ông Huỳnh văn Tứ đảm trách vai trò Giám đốc sản xuất. Họ Nguyễn đảm nhận trách nhiệm Giám đốc nghệ thuật. Hãng đĩa Continental có 36 chi nhánh, phát hành toàn miền Nam - - Chủ trương phát triển cùng lúc 2 bộ môn tân và cổ nhạc. Khi đó, tác giả “Phiên gác đêm xuân” được rất nhiều soạn giả cải lương nổi tiếng cộng tác. Nhưng các soạn giả này lại không rành lắm về tân nhạc. Do đó, việc dàn dựng kịch bản thường không ăn khớp với tân nhạc. Để bổ khuyết, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông phải “lăn lưng” vào cuộc. Ông dành thời gian tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi... sau một thời gian ông đâm ra yêu thích bộ môn nghệ thuật ấy. Ông kể:
“Tôi rất nhớ ơn cố soạn giả Hoàng Khâm và các tay danh cầm bên cổ nhạc như Văn Tỷ, Năm Cơ, Hai Thơm…Họ đã chỉ vẽ cho tôi một cách tình, không dấu nghề. Vì thế mà chỉ một năm sau, tôi đã có thể tự tin đủ sức bước sâu vào lãnh vực mới mẻ này; cũng với tất cả đam mê, như khi tôi ‘khám phá’ thế giới tân nhạc, trước đó vậy.” Du Tử Lê_________ Chú thích:
(1) Nhạc sĩ Phạm Đình Chương từng ghi lại trong tuyển tập nhạc nhan đề “Phạm Đình Chương, Ly rượu mừng,” do Phạm Thành xuất bản tại Hoa Kỳ, 1991, thì: Ca khúc “Ly rượu mừng” được ông sáng tác năm 1955 tại Saigòn. Để đăng tải trong Giai phẩm Xuân Đời Mới; theo yêu cầu của cụ Trần Văn Ân và, nhà văn quá cố Nguyễn Đức Quỳnh, là hai người chủ trương báo này.
(2) Đại nhạc hội này do nhà xuất bản Trăm Hoa Miền Nam tổ chức. Nhân đây, cũng xin lưu ý: “Trăm Hoa Miền Nam” và “Tinh Hoa Miền Nam” là hai nhà xuất bản nhạc lẻ khác nhau. ,Edited by user Wednesday, April 4, 2018 4:55:36 PM(UTC)
| Reason: Not specified |